Điều gì đang xảy ra với tỷ giá?
Tỷ giá đã chính thức chạm trần tại các NHTM mấy hôm nay, bất
chấp NHNN đã nhiều lần lên tiếng khẳng định lập trường không điều chỉnh tỷ giá,
và rằng những biến động gần đây chỉ là do tâm lý và đã được phản ánh hết vào
những đợt điều chỉnh tỷ giá trước đây.
Cái tâm lý mà NHNN đề
cập đến có lẽ là tâm lý đầu cơ, lo sợ, hoặc kỳ vọng rằng Fed vào hôm nay hoặc
ngày mai sẽ quyết định nâng lãi suất USD lên lần đầu tiên trong nhiều năm và do
đó sẽ kéo theo sự mất giá của VND.
Bởi vậy, trước viễn
cảnh VND sẽ mất giá như vậy, đương nhiên là người đang nắm giữ tài sản bằng VND
mà lại có nợ hay có nhu cầu chi tiêu bằng USD thì lo sợ rằng sau này sẽ phải
tốn nhiều VND hơn để mua từng đó USD trả nợ/chi tiêu, còn người không có nợ hay
có nhu cầu về USD thì lại phát sinh tâm lý đầu cơ, mua gom USD ngay bây giờ để
mấy hôm nữa USD lên giá bán đi sẽ thu được nhiều VND hơn. Hoặc đơn giản hơn là
những người lo xa, kỳ vọng VND sẽ mất giá nên sẽ kéo theo lạm phát, làm cho tài
sản của mình bằng VND teo tóp theo thời gian, nên muốn đi trước thị trường bằng
cách mua USD và coi đó như một tài sản phòng tránh lạm phát ở Việt Nam.
Dù là cái tâm lý nào
trong số những phản ứng như trên của các chủ thể của thị trường thì điều cần
thừa nhận là những cái tâm lý đó hoàn toàn là duy lý, có lý, hợp pháp, và là
điều đương nhiên sẽ phải xảy ra. Và cũng cần phải thừa nhận rằng những phản ứng
này không chỉ có ở Việt Nam mà còn ở mọi nơi trên thế giới nếu trong cùng một
hoàn cảnh. Nếu không vậy thì không thể có chuyện nhiều ngân hàng trung ương
trên thế giới đã (buộc phải) thuận theo áp lực của thị trường để đồng nội tệ
của họ mất giá so với USD mỗi khi có động thái mới từ Fed.
Do đó, cũng đã đến lúc
phải nên thừa nhận rằng cái gọi là tâm lý chính là một lực lượng gây ảnh hưởng
quan trọng, và thậm chí là rất quan trọng lên định hướng chính sách của NHNN.
Đương nhiên là cũng giống như mọi ngân hàng trung ương khác, họ đều muốn có một
sự độc lập, tự chủ trong chính sách tiền tệ của mình. Nhưng điều khác biệt là
sự độc lập tự chủ này mâu thuẫn ở mức độ nào với xu hướng và đòi hỏi của thị
trường, được hậu thuẫn bằng cái gì, mạnh đến đâu. Cho nên, rất nhiều khi các
ngân hàng trung ương thế giới, kể cả của những nước lớn như Anh, lúc đầu ra sức
đối đầu với thị trường bằng không chỉ lời nói (thuyết phục) mà bằng cả tiềm lực
vật chất và các công cụ hành chính của họ, nhưng để rồi họ vẫn phải thừa nhận
thua và chấp nhận thả nổi thị trường với tổn thất lớn về vật chất và uy tín.
Trở lại với Việt Nam,
ngoài sự hiển nhiên và hợp lý của các loại tâm lý nói trên, điều đáng chú ý là
những tâm lý này không phải chỉ mới xuất hiện, cần phải có thời gian thử thách
để biết chúng có là tâm lý nhất thời hay không. Thực ra chúng đã tồn tại hơn cả
năm nay rồi và chính bởi thế mà NHNN đã phải chấp nhận điều chỉnh tỷ giá vài
lần trong năm qua và năm nay, phá vỡ cam kết của mình.
Hơn nữa, bên cạnh tâm
lý hình thành từ các động thái của Fed, một loạt các tâm lý tương tự cũng được
hình thành dựa trên những bước đi quyết đoán của nhà cầm quyền Trung Quốc liên
quan đến tỷ giá Nhân dân tệ (RMB) trong mấy tháng gần đây. Chính NHNN cũng đã
phải thừa nhận việc họ điều chỉnh tỷ giá hồi tháng 8 vừa qua là do Trung Quốc
phá giá RMB. Cho dù mức độ điều chỉnh tỷ giá của NHNN là vẫn chưa đủ, nhưng đã
có một số chuyên gia và lãnh đạo ngân hàng nhanh chóng lên tiếng khẳng định
rằng Trung Quốc sẽ không phá giá RMB nữa, và có lẽ đây cũng là một phần cho lý
do đằng sau khẳng định lặp đi lặp lại của NHNN về chuyện không điều chỉnh tỷ
giá VND đến cả đầu năm sau.
Nhưng thực tế đã diễn
biến quá nhanh và phức tạp so với kỳ vọng của những người trong cuộc. Trung
Quốc lại liên tục phá giá RMB dù ở biên độ nhỏ bất chấp nó mới được công nhận
chính thức đưa vào rổ tiền tệ dự trữ quốc tế SDR của IMF. Do nền kinh tế của
Trung Quốc tiếp tục giảm tốc nên sự mất giá của RMB có lẽ sẽ không dừng lại ở
mức hiện tại.
Trong bối cảnh cùng
lúc chịu 2 “mũi công” trong khi tiềm lực vật chất (kho dự trữ ngoại hối) của
NHNN đã giảm đáng kể (Theo số liệu của IMF thì dự trữ ngoại hối đã giảm 6,7 tỷ
USD và còn 30,3 tỷ USD vào cuối tháng 9/2015) thì tương quan lực lượng như thế
nào đã trở nên rõ ràng hơn nhiều so với mấy tháng trước đây. Công cụ chính sách
còn lại mà NHNN có thể trông chờ vào là công cụ hành chính, như chống đầu cơ,
găm giữ ngoại tệ. Nhưng phần vì một phần trong số các biện pháp hành chính đã
được thực hiện, phần vì tính hai mặt của các biện pháp này (sẽ gây khó khăn cho
môi trường kinh doanh của doanh nghiệp…) nên tính hữu dụng của các biện pháp
hành chính cũng chỉ có hạn, như kinh nghiệm của các nước phải vật lộn với thâm
hụt cán cân thương mại và thanh toán, và ngay của Việt Nam trước đây.
Thị trường hiểu rõ
tình thế của NHNN và nhìn trước được điều gì sẽ xảy ra không lâu nữa nên tỷ giá
VND cứ thế mà kịch trần, và rồi sẽ đội trần trong những giao dịch ngầm được hợp
pháp hóa như tư vấn, vay vốn v.v... Trong hoàn cảnh này điều mà NHNN có thể làm
là hy vọng Fed sẽ hoãn vô thời hạn việc tăng lãi suất USD và Trung Quốc thôi
không phá giá RMB nữa. Lúc đó tỷ giá có thể quay về dưới mức trần, và thị
trường có thể quay lại với niềm tin rằng chẳng có lý do gì để phá giá vì mọi
thứ vẫn ổn (FDI và kiều hối vẫn chảy vào mạnh, cán cân thanh toán vẫn thặng
dư...).
Nhưng NHNN sẽ có
phương án nào nếu những hy vọng trên không xảy ra? Rất có thể, cơ quan quản lý
phải đưa ra quyết định về chính sách tỷ giá ngay đầu năm sau.
TS. Phan Minh Ngọc
Theo InfoNet
BÌNH LUẬN