10 điều thường gặp và nên tránh khi đầu tư chứng khoán
(NDH)
Thực tế, có rất nhiều loại hình đầu tư như cổ phiếu, quyền chọn, bán khống (ở
Việt Nam chưa cho phép các loại hình đầu tư này), hoặc theo thu nhập cố định
nhưng chính khả năng xác định và kiểm soát được tâm lý (blind spots) sẽ giúp
nhà đầu tư thành công.
Đầu tư
thành công và đem lại lợi nhuận lâu dài là một điều rất khó, nhưng để làm được
việc này nhà đầu tư không cần phải là một thiên tài trong việc phân tích, lựa
chọn cổ phiếu, hay hiểu biết sâu sắc về vĩ mô, kinh tế thế giới. Việc này liên
quan đến những điều đơn giản hơn, nhưng ít được chú ý đến, đó là “Khả năng xác
định và vượt qua được trạng thái tâm lý trong đầu tư.”
Thiên tài Warren Buffett đã có một câu nói rất nổi tiếng về hành
vi của nhà đầu tư chứng khoán: “Success in investing doesn’t correlate with
I.Q.. Once you have ordinary intelligence, what you need is the temperament to
control the urges that get other people into trouble in investing” (tạm dịch là
“ Thành công trong đầu tư không tương quan đến chỉ số IQ, tất cả những gì bạn
cần là sự kiểm soát để không rơi vào rắc rối”).
Thực tế, có rất nhiều loại hình đầu tư như cổ phiếu, quyền chọn,
bán khống (ở Việt Nam chưa cho phép các loại hình đầu tư này), hoặc theo thu
nhập cố định nhưng chính khả năng xác định và kiểm soát được tâm lý (blind
spots) sẽ giúp nhà đầu tư thành công. Dưới đây là 10 điều thuộc về tài chính
hành vi (bahavioral finance) nhà đầu tư thường gặp và nên tránh khi đầu tư.
1. Overconfidence (quá tự tin): Điều này thể hiện qua sự tin tưởng rằng chúng ta thông minh
hơn hoặc có khả năng hơn thực tế mà chúng ta có. Ví dụ: có đến 82% người nói
rằng họ thuộc 30% những người lái xe an toàn nhất hoặc họ chắc chắn đến 90%
rằng họ biết rõ điều đó mặc dù họ chỉ thực tế biết khoảng dưới 70%.
Trong đầu tư, Overconfidence dẫn nhà đầu tư đến việc họ có thể
tự tin là tìm được cổ phiếu tương tự như Apple hoặc Priceline Inc.( Apple và
PriceLine Inc. đã tăng giá 5,3 và 14 lần trong 5 năm gần đây). Nhưng thực tế,
họ không thể. Ngoài ra, họ tự tin rằng họ thông minh hơn nhà đầu tư khác ở vị
thế ngược lại và họ không tính toán đến những chi phí khi giao dịch như: phí
giao dịch, thuế, chênh lệch mua bán (Bid-ask Spread) khi tiến hành một khoản
đầu tư.
Overconfidence nguyên nhân do việc phải ra quyết định rất nhanh
khi bị bao vây bởi rất nhiều thông tin trên thị trường chứng khoán và dựa trên
những thành công trước đây.
Để vượt
qua điều này, chúng ta phải luôn thừa nhận rằng những gì chúng ta biết ít hơn
những gì chúng ta nghĩ chúng ta biết rõ (We all know less than we think we do)
và luôn sẵn lòng học hỏi, thảo luận và phân tích những sai lầm đã qua.
Điều quan trọng hơn, để sự quá tự tin này không làm ảnh hưởng
đến đầu tư, chúng ta phải xây dựng một danh mục đa dạng hóa và không đánh cược
quá trên bất kỳ một ý tưởng hoặc khoản đầu tư nào trong danh mục đầu tư. Đôi
lúc chúng ta cũng chiến thắng trên những lí do sai lầm nhưng chính điều này sẽ
ghi nhận trong tâm trí và sẽ ảnh hưởng trong lần đầu tư tiếp theo.
Vậy để thành công trong đầu tư, không phải là kiếm thông tin tốt
hơn mà chính là phải tìm kiếm những giá trị từ các thông tin hiện hữu một cách
sáng suốt và có lý hơn.
2. Selective Memory (Trí nhớ
chọn lọc): Con người thường né tránh khi
nhớ về những sai lầm hoặc kinh nghiệm thất bại trong quá khứ mặc dù chính chúng
ta đã gây nên. Trong đầu tư, nhà đầu tư thường không muốn nhớ những cổ phiếu đã
gây ra thua lỗ mà chỉ nhớ có chọn lọc những khoản đầu tư thắng lợi để “tự” thỏa
mãn và bảo vệ hình ảnh của chính chúng ta.
Chúng ta thường hay trấn an chính chúng ta bằng các câu tự nói
với chính mình như “ Có lẽ đó là một quyết định không tồi khi bán cổ phiếu thua
lỗ đó hoặc có lẽ chúng ta sẽ không mất nhiều tiền như chúng ta nghĩ?” Và dần
dần trí nhớ của chúng ta sẽ không còn chính xác về những sự kiện đầu tư sai lầm
đó.
Nguyên nhân của “Selective Memory” là có thể do tâm trí quá tập
trung vào những chứng cứ hiện tại mà quên mất đi những chứng cứ trong quá khứ
dẫn đến quyết định đầu tư sai lầm.
Để tránh sai lầm từ “Selective Memory” và “Overconfidence” , nhà
đầu tư nên ghi nhận lại kết quả đầu tư (thắng hoặc thua) vì có thể dễ dàng nhớ
1 cổ phiếu có lợi nhuận 50% ngay lập tức nhưng việc ghi nhận toàn bộ các khoản
đầu tư này sẽ giúp chúng ta nhận thấy phần lớn khoản đầu tư của chúng ta đều ở
trạng thái không tốt trong một thời kỳ.
3. Self- Handicapping (Tự cản trở
mình): đối lập với Overconfidence.
Self-Handicapping xảy ra khi chúng ta cố gắng giải thích tương lai ảm đạm với
những lý do có thể đúng hoặc không đúng. Ví dụ như chúng ta cảm thấy không tốt
để bắt đầu 1 buổi trình bày thì chắn chắn buổi trình bày đó sẽ không tốt.
Khi đầu tư, chúng ta cũng không chịu nổi sự tự cản trở mình, như
là tự cho rằng mình không có nhiều thời gian để nghiên cứu và trong trường hợp
khoản đầu tư không như ý muốn lại tự trách mình.
Self – Handicapping & Overconfindence đều ảnh hưởng chung
đến sự thành công trong đầu tư.
4. Loss Aversion (Ám ảnh thua
lỗ): Nhiều nhà đầu tư cảm thấy ám ảnh khi 1
khoản đầu tư thua lỗ mặc dù phần còn lại của danh mục là an toàn. Và họ sẵn
sàng bán một cổ phiếu chỉ với một lợi nhuận nho nhỏ, nhưng lại nhất định không
bán một cổ phiếu đang rớt thảm hại với một lí do là nó sẽ trở lại nhưng thực tế
điều đó không bao giờ xảy ra.
Một ví dụ khác là chúng ta thà không mất 5 USD hơn là tình cờ
phát hiện được 5 USD. Loss aversion khiến nhà đầu tư không dám thực hiện đầu tư
do nỗi sợ hãi thua lỗ.
Để tránh cảm giác loss aversion, nhà đầu tư nên đa dạng hóa danh
mục đầu tư, mở lòng và học hỏi kiến thức để luôn tìm thấy cơ hội phía trước.
5. Anchoring (Mỏ neo):Ví dụ khi chúng ta hỏi một cư dân của TP. HCM về dân số của Hà
Nội, họ có xu hướng dùng con số dân cư của TP. HCM họ biết và điều chỉnh xuống
và áp cho dân số của Hà Nội, nhưng như vậy là không đúng. Khi dự báo một điều
không rõ, chúng ta có xu hướng dính chặt với những gì chúng ta biết.
Trong đầu tư, khi một cổ phiếu giảm giá, nhà đầu tư có xu hướng
“dính” với giá mà họ đã mua cổ phiếu đó và các yếu tố khác như thu nhập cổ
phiếu cao, thị phần tốt trước khi nó giảm giá và họ quyết định không bán khi
tình tế thay đổi, và chờ nó trở về giá hòa vốn ban đầu. Nhưng thực tế điều đó
không xảy ra.
Ví dụ như DELL từng là một công ty thống trị ngành máy tính
trong 2 thập niên, nhưng lợi thế đó không còn và đã lỗi thời thì tại sao chúng
ta lại giữ DELL trong danh mục đầu tư?
Nhà đầu tư nên tự hỏi mình: “ Khoản đầu tư này có đem lại lợi
nhuận không?” Nếu không, tại sao tôi lại phải giữ nó?” . Trả lời một cách thật
lòng, sẽ giúp nhà đầu tư có một quyết định hợp lý.
6. Sunk Costs (chi phí chìm): Ví dụ: như chúng ta bỏ 100 USD để mua một vé xem kịch và cảm
thấy vở kịch này thật kinh khủng và vì chính chúng ta bỏ tiền ra mua vé đó, nên
chúng ta có xu hướng tham dự vở kịch đó đến hết nhưng nếu vé vở kịch đó được
cho bởi một người bạn, thì chúng ta dễ dàng quyết định dự hoặc không tham dự
khi biết vở kịch đó tồi.
Trong đầu tư, khi chúng ta dành nhiều thời gian, công sức để
nghiên cứu 1 cổ phiếu và nhận thấy đó là khoản đầu tư không tốt nhưng về bản
năng chúng ta lại thích nó do chúng ta đã dành nhiều thời gian cho nó và có xu
hướng chọn nó.
7. Confirmation Bias (Xu hướng
khẳng định – Bảo thủ): ví dụ như
chúng ta sở hữu 1 chiếc xe Honda, ta có xu hướng tin tưởng những thông tin ủng
hộ những kinh nghiệm quá khứ khi ta mua nó hơn là những thông tin đối lập.
Trong đầu tư, khi mua một quỹ đầu tư chuyên về những cổ phiếu ngành
y tế, chúng ta có xu hướng thích hoặc cường điệu hóa về về ngành Y tế và phớt
lờ/ giảm bớt đi những thông tin không tốt về ngành đó mà chúng ta nghe được.
Để tránh thất bại này, chúng ta nên tìm kiếm thông tin cả hai
phía, điều này sẽ giúp nhà đầu tư tránh bị trói chặt vào bất kỳ một ý tưởng
nào, quyết định độc lập hơn và ngăn tình trạng “ falling in love with a stock”.
Xa hơn, chung ta sẽ có cơ hội tìm thấy lí do khoản đầu tư của chúng ta là sai
và có cơ hội sửa sai sớm hơn.
8. Mental Accounting: Ví dụ như ta chơi bài roulette với 100 USD và bất ngờ thắng 200
USD, chúng ta có xu hướng nghĩ rằng sẽ chơi rủi ro tiếp với 200 USD vì 200 USD
này không phải là tiền của chúng ta và không phải cực nhọc kiếm được và sẽ dễ
dàng đồng ý với việc đánh rủi ro với nó.
Một ví dụ khác: nếu chúng ta ở quận 1 và dự định mua 1 cái tivi
với giá 500 USD tại quận 1 nhưng ở quận 3 chỉ bán với giá 400 USD thì chúng ta
có xu hướng di chuyển xuống quận 3 để mua vì tiết kiệm được 100 USD. Nhưng nếu
mua một chiếc xe máy với giá 5.000 USD tại quận 1 và 4.900 USD tại quận 3, ta
lại có xu hướng mua luôn tại quận 1 (mặc dù sẽ mất đi 100 USD so với ở quận 3).
Để tránh điều này, nhà đâu tư nên tính toán Total return on
investment (ROI) trên các khoản đầu tư của mình.
9. Herding (Tính bầy đàn): Có hàng ngàn cổ phiếu và chúng ta không thể biết rõ hết chúng
tất cả. Và chúng ta thường xuyên bị bao vây bởi những ý tưởng của môi giới,
tivi, tạp chí, các trang web về đầu tư, bạn bè… Và chắc hẳn những ý kiến đó
nghe có vẻ hấp dẫn hơn so với cổ phiếu mà chúng ta đang giữ. Thực tế, một cổ
phiếu khi được chú ý bởi số đông do sự tăng giá của nó chứ không vì sự cải
thiện nội tại của doanh nghiệp.
Thực tế, nhà đầu tư thường giao dịch quá nhiều dựa trên những lý
do kg đúng, nghe theo báo chí, tin tức, bạn bè. Và chúng ta có thể tránh sai
lầm khi chúng ta lựa chọn cổ phiếu cẩn thận hơn, và tránh xa đám đông hoặc các
tin đồn để tránh những khoản đầu tư không theo mục tiêu đầu tư của mình.
10. Recency Bias: là suy nghĩ cho rằng những xu hướng hoặc mô hình trong quá khứ
gần sẽ lập lại hoặc tiếp tục trong tương lai do vậy, những hành động trong
tương lai sẽ dựa trên những nhận thức của quá khứ.
Ví dụ như, thị trường nhà đất đang ở trong tình trạng xấu và nhà
đầu tư luôn khăng khăng cho rằng nó sẽ tiếp tục mãi mãi như vậy. Nhưng chúng ta
đều biết, chu kỳ của nền kinh tế sẽ diễn ra và trở lại.
Thật may mắn cho những ai nắm giữ cổ phiếu của Home Depot,
Lowe’s hoặc Paychex (Home depot đã tăng giá gấp 4 lần khi kinh tế Mỹ hồi phục
trong 5 năm gần đây. Và Lowe’s đã tăng giá 2,5 lần kể từ 2009) ở thời điểm này.
Nguyễn Ngọc Thạch – Trưởng phòng Môi giới khách hàng cá nhân 6 – CTCP Chứng khoán Sài Gòn SSI
BÌNH LUẬN