VAY ODA VÀ VAY THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH QUỐC TẾ
Có thể giải thích rằng vay bằng hình thức viện trợ phát triển là
một tiến trình chuyên môn phức tạp nó không đơn giản như người ta nghĩ. Cụ thể
mà dân đóng thuế của các nước giàu cấp viện, thực tế họ cũng không biết rõ, cơ
quan ngoại giao hay viện trợ thì chủ yếu chú trọng đến yếu tố chính trị, chẳng
hạn là số tiền ngân khoản viện trợ và mục tiêu sử dụng của nước cấp viện và
nước cầu viện, thực tế để báo cáo kết quả khả thi với cả hai quốc hội hay quốc
dân những nước đó họ cũng chẳng hay biết luôn.
Nói chung thì vẫn chỉ là đánh giá những kết quả trong năm mà
người ta đã viện trợ bao nhiêu tiền để xây dựng bao nhiêu km đường xa lộ, hay
bao nhiêu cây cầu, hay bao nhiêu bệnh viện, trường học,... Những con số càng
nhiều thì coi như viện trợ cũng càng nhiều, còn phẩm chất ra sao nhiều khi
người ta cũng không nắm rõ. Tuy nhiên, về hình thức thì cả hai bên cấp viện lẫn
cầu viện họ đều biết rõ mà ta có thể gọi là "hình thức rút ruột dự án viện
trợ". Vấn đề cơ bản ở đây là người ta có nói ra hay không mà thôi. Điều
này, có nghĩa là cầu viện thì có gian ý, còn bên cấp viện, tức là cho vay thì
thừa biết gian ý nhưng đôi khi họ cũng cố tình lờ đi để còn tiếp tục thực hiện
dự án khác.
Viện trợ từ các nước giàu chủ yếu vẫn là các nước Mỹ, Âu châu,
Nhật Bản hay một số nước khác, họ viện trợ qua các nước nghèo có nhiều mục tiêu
và thể thức. Về mục tiêu, có loại viện trợ nhân đạo, thường là cho không, tức
không hoàn lại vốn lẫn lời và hướng vào một chương trình rõ rệt và ngắn hạn như
tài trợ về vấn đề thiên tai, dịch bệnh,... bên cạnh đó và quan trọng hơn có
loại viện trợ phát triển, nhắm vào các dự án phát triển dài hạn, được tài trợ
dưới hình thức cho vay nhẹ lãi, hoặc không cần trả lãi có thời gian miễn trả
tiền vốn khá lâu, gọi là “thời gian ân hạn đủ dài”, và thời hạn hoàn trả thường
kéo dài trong thời gian từ 20 năm cho đến 40 năm,...
Thông thường về thể thức viện trợ, ta có viện trợ đa phương của
các tổ chức quốc tế như WB, IMF, ADB,... hoặc vận động vốn trên thị trường tài
chính và cả nguồn tài trợ của các chính phủ, và có loại song phương của từng
chính phủ, gọi là ODA, thực tế cơ bản thì cũng là từ tiền thuế ngân sách của
quốc gia của bên cấp viện và tiền lãi và vốn phải trả từ phía cầu viện, nghĩa
là tất cả đều từ tiền thuế của dân mà ra, kể cả tiền thuế của dân cấp viện. Khi
viện trợ theo thể thức ODA, chính quyền của các nước giàu cấp viện họ cũng cần
các tổ chức chuyên môn quốc tế, như WB, IMF, ADB, hay Chương trình Phát triển
của Liên hiệp quốc là UNDP,... thực hiện cho phía nước cầu viện về mặt kỹ
thuật.
Ở bên kia, tiếp nhận viện trợ, nhất là loại phát triển, tức là
dài hạn, là chính phủ các nước nghèo cầu viện. Bên cấp viện họ giao cho các bộ,
ban ngành đón nhận và sử dụng viện trợ căn cứ trên những cứu xét và thỏa thuận
với nguồn cấp viện. Thí dụ chẳng hạn như chính phủ Nhật Bản, Mỹ, Hà Lan hay
Thụy Điển, Hàn Quốc,... muốn viện trợ cho Việt Nam để thực hiện một dự án nào
đó thì Bộ Ngoại giao, Sứ quán hay cơ quan viện trợ của họ không trực tiếp xây
cầu hay mở lớp huấn luyện đào tạo cho Việt Nam mà giao cho một cơ quan chuyên
môn của quốc tế có kinh nghiệm thực hiện việc ấy. Các cơ quan này mới thuê nhân
viên hay công ty tiến hành theo những thỏa thuận giữa nước cấp viện và nước cầu
viện.
Cho nên, thông thường là điều dễ hiểu. Chính quyền một quốc gia
viện trợ cho một nước khác thì tất nhiên ai cũng muốn doanh nghiệp của mình sẽ
đấu thầu thực hiện. Tuy nhiên, với loại viện trợ đa phương thì việc đấu thầu
thi công được sẽ được công khai mở rộng cho nhiều công ty có quốc tịch khác
tham gia. Thứ nữa, một điều hợp lý và cần thiết là nếu quốc gia cầu viện có khả
năng thực hiện lấy thì nên giao cho doanh nghiệp của nước đó. Điều phú phàng là
hình thức này trước đây, VN nhận được hình thức cho vay này, và TQ, một quốc
gia cho vay ODA dành cho VN chiếm con số cực thấp, không đáng là bao nhiêu,
nhưng lại được chúng thầu nhiều nhất và lãng lãng phí nhất.
Để gói gọn lại, khi các định chế tài chính quốc tế như ADB, WB,
hay các chính phủ cấp viện cho vay theo tiêu chuẩn viện trợ phát triển. Tức là
cho vay với lãi suất nhẹ so với lãi suất thị trường, với thời gian ân hạn đủ
dài là khi chỉ trả tiền lời, trước khi bắt đầu trả lại cả vốn lẫn lời trong một
kỳ hạn có thể là vài chục năm để nước cầu viện hoàn thành dự án. Thông thường,
các định chế viện trợ phát triển này đều am hiểu tình hình kinh tế của các nước
nghèo, mà Việt Nam nằm trong số đó, họ còn có kỹ thuật "nghiên cứu khả
thi" hay (feasibility study) để giúp các nước thực hiện các dự án tiền đầu
tư hay dự án khả thi nếu thấy ra lợi ích kinh tế.
Bài học đắt giá về vay ODA. Điều phú phàng nhất cho hình thức
vay ODA này, vì thời gian trả rất dài có thể đến nhiều chính phủ thay phiên
nhau cầm quyền, nên có thể dẫn đến việc người ta không có trách nhiệm, mà hiểu
nôm na ở VN có câu nói "cứt trâu để lâu thì hóa bùn", và hình thức
vay ODA sẽ rất lãng phí nếu người ta không giám sát chặt chẽ, và người dân
không được biết nhiều đến hình thức vay ODA này, như bài học VN dang bị lãnh
hậu quả nhiều công trình đội vốn và thuế phí bất thường tăng lên thì người ta
mới giật mình là vay ODA để vay cho nhóm lợi ích tham nhũng.
Vay ODA đôi khi cũng mất chủ quyền quốc gia, vì nó không có hiệu
quả khi người ta nhìn ra các dự án kinh tế có hiệu quả như vay trên thị trường
tài chính do chính mình làm chủ đầu tư dụ án.
Vay trên thị trường tài chính mà tôi đã phân tích (Standard& Poor’s, Moody's, Fitch Ratings thẩm định trái phiếu các nước đi vay bằngngoại tệ như thế nào?):
Vay ODA như đã phân tích, nó rất hữu ích nếu người ta biết tận
dụng nguồn vốn để đầu tư có hiệu quả, Tuy nhiên, khi một quốc gia có thu nhập
cao hơn thì nguồn vốn vay ODA sẽ phải giảm hoặc không còn, và phải gọi vốn trên
thị trường tài chính quốc tế. Tuy nhiên, thực tế nếu chính quyền nước cầu viện
mà chủ quan duy ý chí nhất quyết thực hiện dự án dù có giá trị kinh tế thấp và
rủi ro cao thì khó vay tiền kiểu viện trợ và cần tới sự tài trợ của thị trường,
với điều kiện vay lãi đắt đỏ, thời gian trả lại ngắn hơn, kể cả nguồn tài trợ
của các doanh nghiệp muốn bán cho Việt Nam công nghệ và thiết bị ấy.
Nếu VN không sử dụng tốt nguồn vốn ODA thì sau này muốn đầu tư
các dự án khác thì hết còn được "viện trợ" mà chuyển sang "tài
trợ của thị trường" vay vốn của giới đầu tư thì ai cũng ngại bởi vốn vay
đắt đỏ. Đó là bài học mà VN cần thuộc lòng chứ đừng mau quên và nên loại bỏ cụm
từ "rút kinh nghiệm" ra khỏi từ điển tiếng VN, để thay thế cụm từ
khác đủ sức trấn an người dân và nước cấp viện.
Về hồ sơ vay mượn trên thị trường tài chính quốc tế hay vay mượn
từ trong nước thì lợi ích càng tốt vì ít bị áp lực trả lãi như vay trên thị
trường tài chính quốc tế. Cụ thể, ta thấy, các nước đã thành công vay mượn lợi
ích từ dân chúng để tiết kiệm chi phí trả lãi mà ít bị rủi ro vỡ nợ như Nhật,
Hàn Quốc, Singapore,...để làm được việc này, ngoài văn hóa từ chức của các
chính phủ và còn có khí cụ tài chính là "chính phủ vay phải cam kết bằng
lời hứa sẽ trả lãi theo kịp đà mất giá của đồng bạc, nếu đồng bạc bị mất
giá,...". Đó là việc không dẽ dàng chút nào đối với VN, khi đồng bạc quốc
gia này luôn bị mất giá theo thời gian và khi mất giá thì không bao giờ tăng
lại.
Đi vay nợ không hẳn là xấu, bất kể ai từ cá nhân, đến tập thể
doanh nghiệp hay các chính phủ một quốc gia đều từng đi vay, để làm "đòn
bẩy tài chính" (financial leverage) để đầu tư và kiếm lời, nếu mình khôn
hơn thiên hạ. Nó là hữu ích đẻ rút ngắn thời gian làm giàu cho cá nhân, công ty
cũng như để các nước rút ngăn thời gian nhằm phát triển đất nước nhanh hơn thay
vì phải ngồi đợi tích lũy từng bạc lẻ mất nhiều thời gian và cũng mất đi cơ hội
làm giàu cho mình và đất nước.
Chẳng hạn, lấy thí dụ trường hợp dự án xây sân bay Long Thành,
về lý thuyết, dự án này nếu được công bố đầy đủ việc "nghiên cứu khả
thi" (feasibility study), cho quốc dân mà người ta chứng minh thuyết phục
được thị trường về lợi ích của nó thì rất dễ đi vay, thậm chí vay trong nước
của người dân. Vì cần hiểu rằng đi vay trên thị trường nó phải khởi đầu bằng
các cố gắng giải thích các hiện tượng diễn ra trên thị trường. Chính vì đây là
dự án mang tầm vóc cấp quốc tế, và mang tính chủ quyền quốc gia nên cần có sự
tham dự của các kỹ sư, kinh tế gia, luật gia và giới kiểm toán, vì họ sẽ là
những người trả lời cho các câu hỏi thiết yếu nhất là nên xây dựng sân bay Long
Thành chứ không phải mấy ông đại biểu quốc hội bấm nút là cứ việc xây rồi đi
vay, sau này ai trả thì hết ai rõ mà chỉ có người nào đang còn sống gia đoạn đó
sẽ phải gánh nợ trả thay.
Khi đi vay như vậy tất nhiên, nếu vì lý do người ta duy ý chí mà
không thẩm định rủi ro hay không cần lắng nghe ý kiến của giới phân tích kinh
tế, giới kỹ sư,...khi dự án gặp sự cố như đội vốn, hoặc bị nhóm lợi ích chi
phối thì hậu quả rất nặng nề cho đất nước, và đôi khi lan rông ra tất cả các
lĩnh vực khác trong kinh tế. Cụ thể thì tự hỏi là tiền đầu tư, vay để làm cái
gì và sẽ gặp những hậu quả gì, phí tổn nào sau này, lợi ích của nó có đáp ứng
như kỳ vọng hay không? Bởi thực tế, nhà nước cũng không tạo ra của cải và tiền
bạc. Việc lấy tiền đầu tư vào đó để xây sân bay Long Thành, hoặc vay bây giờ để
sẽ trả sau này là những quyết định sẽ có hậu quả đến người dân phải trả sau này
qua thuế hoặc lạm phát.
Tất nhiên khi đi vay ở thị trường tài chính quốc tế, trái phiếu
do chính phủ phát hành, là trái phiếu quốc trái để vay nợ có độ rủi ro rất thấp
vì nhà nước có độ tin cậy cao, vì nhà nước có thể dễ dàng tăng thuế để chi trả,
mà ta hiểu là chủ quyền tối cao, tức là trách nhiệm cũng tối cao của cấp quốc
gia đó khi đi vay nên đừng mong là mình quỵt nợ họ.
Khi đi vay để đầu tư thực tế thì chủ nợ, tức giới đầu tư và con
nợ, là nước đi vay, thì ai cũng muốn đôi bên đều có lợi cả. Chủ nợ đều mong
muốn dự án vay mượn đó hoàn thành tốt và có lợi ích về kinh tế để họ được trả
lãi và vốn đúng hạn, họ cũng mong muốn cho nước đó vay với lãi suất vừa phải,
nếu con nợ minh bạch. Nhiều chuyên gia kinh tế VN và các ban bộ nhiều khi họ cứ
nghĩ là muốn vay là có tiền ngay, vì họ nghĩ nếu dự án đó thất bại thì nhượng
lại cho giới đầu tư khai thác trong kỳ hạn nào đó, hay bán lại dự án, hoặc nghĩ
rằng chúng ta có hàng tá cảng biển hàng trăm ngàn tòa nhà cao ốc đất vàng cũng
có trị giá cả trăm hay ngàn tỷ USD thì lo gì chúng tôi quỵt nơ. Thực tế không
đơn giản như vậy!
Ta nên nhớ rằng nghiệp vụ vay lãi trên các thị trường tài chính,
ngân hàng hay giới đầu tư quốc tế không thể và chẳng cần vào tận VN lục hồ sơ
xem "tiền án vay nợ, hay tài sản thế chấp", hay các quốc gia nào đó
để cứu xét xem doanh nghiệp hay ngân hàng muốn vay tiền đó có trụ sở giao dịch
hoành tráng với tòa cao ốc có kích thước to bằng cả tòa nhà Willis Tower, hay
Tháp Willis, trước kia là Sears Tower, là một tòa nhà chọc trời ở Chicago, cao
hơn 110 tầng, cao đến 442 m, kích thước to hơn cả sân bóng đá tại sân vận động
Old Trafford của đội banh Manchester United làm vật thế chấp là được. Giới đầu
tư hay chủ nợ, họ chẳng cần quan tâm đến những tài sản thế chấp đó, mà họ chỉ
quan tâm nước đi vay phải trả lãi đúng kỳ hạn, và cả vốn vay gốc khi đáo hạn.
Khi ấy giới đầu tư thường chỉ căn cứ trên cách đánh giá của các
công ty thẩm định tài chính như Standard & Poor’s, Moody's, Fitch Ratings
để quyết định là có nên cho doanh nghiệp hay ngân hàng ấy vay tiền không, và
nếu cho vay thì phải trả tiền lời tối thiểu là bao nhiêu để trang trải các rủi
ro có thể xảy ra cho họ.
Phía đi vay nợ cũng không tự đi vay được mà phải nhờ một số ngân
hàng có uy tín trên quốc tế như Royal Bank of Scotland, Lloyds Bank (FTSE 100,
mã chứng khoán RBS: LN), HSBC, Morgan Stanley (NYSE: MS) PMorgan Chase (NYSE,
Dow Jones: JPM), Bank of America (NYSE: BAC), Citigroup (NYSE: C), Deutsche
Bank yết giá tại Frankfurt của chỉ số chứng khoán DAX (FWB: DBK), tại New York
mã chứng khoán của Deutsche Bank (NYSE: DB), Société Générale, Crédit Agricole
(Pháp),...họ làm trung gian, và mời một công ty khác có uy tín làm cố vấn cho
việc phát hành tờ giấy nợ là trái phiếu đó để vay, tất nhiên các khoản chi phí
đó phải do phía VN trả cho họ, tức cũng là tiền ngân sách, là tiền thuế của dân
mà ra.
Trong quá trình đầu tư dự án xây cất sân bay Long Thành mà thấy
hiệu quả và vượt tiến độ, thì nếu VN phát hành thêm trái phiếu để vay cho dự
án, tất nhiên việc vay sẽ dễ hơn, và lãi suất có thể hạ, bởi chủ nợ và chủ đầu
tư đều thấy ra dự án là tốt và có hiệu quả cũng như có những lợi ích kinh tế
lớn lao.
Tuy nhiên, ngược lại trong quá trình thi công xây cất dự án mà
gặp rủi ro như đội vốn, dự án không hiệu quả vì tham nhũng, hay lợi nhóm chi
phối, cũng như sự dư thừa sân bay không cần thiết. Vì một nước khác cũng tung
ra dự án xây sân bay lớn như sân bay Long Thành, nếu VN tiếp tục đi vay thì các
chủ nợ sẽ đòi lãi suất cao hơn, hoặc họ không cho vay, nếu họ sợ rủi ro họ sẽ
bán lại các tờ giấy nợ đó cho nhà đầu tư khác hoặc họ sẽ tăng lãi suất lên. Nếu
lãi suất tăng lên vì rủi ro nợ công gia tăng mà đầu tư không hiệu quả thì các
khoản nợ nước ngoài khác cũng bị áp lực tăng lãi suất, dẫn đến các khoản vay
bằng đồng nội tệ trong nước sẽ tăng theo và đưa vào vòng xoáy nợ nần là không
tránh khỏi.
Đấy là bài học về chuyện vỡ nợ của một quốc gia giàu tài nguyên
mà quản lý kinh tế quá tồi tệ là Argentina, với nền kinh tế lớn thứ ba tại châu
Mỹ La Tinh, dù quốc gia này có tổng sản phẩm nội địa lên tới 540 tỷ USD trong
năm 2014, thấp hơn so với mức 622,06 tỷ USD vào năm 2013, do từ ngày 31/07/2014
Argentina lâm vào thế "mất khả năng thanh toán" khiến quốc gia này bị
đuổi ra khỏi thị trường tài chính quốc tế vì tiền vay nợ đầu tư xây cất không
thẩm định rủi ro khi vay nợ tài trợ các dự án xây cất rất hoành tráng mà không
dùng tới và bỏ hoang hư hỏng và vứt đi vì thiếu tiền bảo trì.
Hãy mường tượng, lãi suất chỉ đạo của Argentina hiện nay 21,92%,
mức cao nhất mọi thời đại là 91,19% vào tháng 4/2002, bởi hành vi "mất
khat năng thanh toán và vỡ nợ kỹ thuật nhiều lần". Điều này khiến tỷ giá
liên ngân là tỷ lệ lãi được tính vào các khoản vay ngắn hạn (tối đa 15 ngày)
giữa các ngân hàng tại Argentina lên đến 25,12%, và mức cao nhất ngất ngưởng
lên đến 1.389,88% vào tháng 3/1990, cũng lại là năm mà quốc gia này tuyên bố
"mất khả năng thanh toán". Đối với lãi suất cho vay của ngân hàng thì
muốn cho vay lãi bao nhiêu cũng được, tức mất kiểm soát. Giá xăng bán lẽ đắt đỏ
lên đến 1,31 USD / lít,...và nhiều thứ thuế tăng. Nói chung, những quốc gia đi
vay đầu tư không hiệu quả và nợ nần cao, lãi suất đều rất cao.
(*) Hình thức vay ODA đã có nhiều tài liệu
giải thích từ WB, IMF, ADB,...và các định chế tài chính khác, nói chung mỗi nơi
phân tích mỗi khác nên ta chỉ phân tích cái sơ hở của hình thức vay ODA đang bị
biến hóa tinh vi này và nó đang diễn ra hàng ngày ở VN bởi các dự án đội vốn kỹ
thuật, vì người ta giải thích nhiều lý do.
Phương Thơ, Morgan Stanley (NYSE: MS)
BÌNH LUẬN