CÁI BẪY ĐỒNG RENMINBI TRUNG QUỐC (RMB, CNY) VÀO SDR
Bất cứ nước nào cũng có thể vào trong giỏ tiền Quyền rút vốn đặc
biệt (SDRs) với tiêu chí mà tôi định nghĩa ngắn gọn như sau, đó là: "lắm
tiền, nợ nhiều và xuất khẩu lớn". Từ định nghĩa trên thì rõ ràng chỉ cần
tiêu chí "xuất khẩu lớn" là TQ đã vào được cái giỏ tiền SDR mà khỏi
cần nói đến "nợ nhiều mà tiền dự trữ cũng nhiều". Đồng nội tệ VND vẫn
có thể nộp đơn vào giỏ tiền SDR nếu đáp ứng được tiêu chí trên (do nhiều tờ báo
VN dẫn nguồn của chuyên gia của ngân hàng đầu tư Morgan Stanley phân tích nên
tôi hạn chế tối đa sự trùng lập).
Trong lịch sử 46 năm, kể từ khi Câu lạc bộ Paris gồm 10 nước nhà
giàu, nó bao gồm: Anh, Mỹ, Đức, Pháp, Ý, Nhật Bản, Bỉ, Canada, Hà Lan, Thụy
Điển, đề xuất lập ra, nói chung khi lập ra thì SDRs là tài sản dự trữ mang tầm
vóc quốc tế nhằm bổ sung hỗ trợ cho tài sản dự trữ của các quốc gia thành
viên,...
Vào ngày 30/11/2015, Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) đã trao quy chế
đặc biệt khi đưa đồng Chinese Yuan Renminbi (CNY) trở thành một đồng "đồng
tiền hợp pháp" (legitimate currency), là tiền dự trữ của thế giới vào rổ
tiền tệ của IMF cho Quyền rút vốn đặc biệt (SDR), để cho vay dựa trên đồng USD,
đồng EUR, đồng bảng Anh (GBP) và yen Nhật (JPY),...và xếp theo thứ tự hiện nay
là đồng USD chiếm 41,73%, của đồng EUR (30,93%), đồng CNY (10,92%), yen Nhật
(8,33%) và đồng bảng Anh (8,09%).
Ta thận trọng, các thông số trong giỏ Quyền rút vốn đặc biệt
(SDR) tại thời điểm năm 2010 giá trị đồng USD chiếm 41,9%, của đồng EUR chiếm
37,4%, bảng Anh chiếm 11,3% và yen Nhật chiếm 9,4%.
Về đại thể, các giá trị của SDR trong điều khoản của đồng USD,
nó được xác định hàng ngày và được trích dẫn của IMF. Nó được tính bằng tổng
của số lượng cụ thể của từng loại tiền giỏ trị giá bằng đồng USD, trên cơ sở tỷ
giá niêm yết vào buổi trưa mỗi ngày tại thị trường London.
Nói chung, theo quy ước mới đã được thông qua trong năm 2015 về
các giá trị của SDR . Nó được dựa trên giá trị xuất khẩu của các công ty phát
hành, số lượng dự trữ bằng đồng tiền tệ tương ứng đã được tổ chức bởi các thành
viên khác của IMF, kim ngạch trao đổi nước ngoài, và các khoản nợ ngân hàng
quốc tế và chứng khoán nợ quốc tế bằng đồng tiền tệ tương ứng (như tôi định
nghĩa ngắn gọn ở trên). Về lãi suất SDR được xác định hàng tuần và được dựa
trên bình quân gia trọng của lãi suất đại diện trên các công cụ nợ ngắn hạn
trên thị trường tiền tệ của giỏ SDR (tương tự như cách tính giá trị của đồng
USD qua chỉ số USDX, mà tôi hay phân tích),...
Trong Quyền rút vốn đặc biệt (SDR), nó được xem như là một tài
sản dự trữ quốc tế (mang biểu tượng tượng trưng thôi), tạo ra của IMF vào năm
1969 để bổ sung dự trữ chính thức các nước thành viên của nó. Giá trị của nó
hiện đang dựa trên một rổ của bốn loại tiền tệ lớn, và giỏ sẽ được mở rộng để
bao gồm các Renminbi Trung Quốc (RMB) là đồng tiền thứ năm, có hiệu lực ngày
01/10/2016. SDR có thể được trao đổi với các đồng tiền tự do sử dụng. Tính đến
ngày 30/11/2015, thì có khoảng 285 tỷ USD của các thành viên góp vào, nó bao
gồm đủ loại ngoại tệ của các nước, nếu tính ra tỷ giá hối đoái của các đòng
tiền đó mà ta gọi tạm cho dễ hiểu là đồng tiền SDR là khoảng 204 tỷ SDR theo
đuôi con số lẻ dư ra 100 triệu SDR.
Về phân tích sơ lược việc đồng RMB vào thị trường tiền tệ của
giỏ SDR, điều đó nôm na là đồng RMB sẽ được thị trường quốc tế chấp nhận sử
dụng để định giá các hợp đồng giao dịch quốc tế, và có thể đưa đến nhiều nước
sẽ trao đổi bán buôn thông qua đồng RMB để hạn chế rủi ro vì lý do nào đồng USD
mất giá hay tăng, hoặc Trung Quốc khi xuất khẩu hàng hóa được định giá bằng
đồng USD sẽ giảm xuống. Mẫu chốt ở đây là kể từ ngày 01/10/2016, tất cả các
ngân hàng trung ương các nước tham gia SDRs sẽ phải giữ đồng RMB như là đồng
tiền dự trữ của họ, còn nước khác có thích hay không thì tùy họ.
Đối với TQ một quốc gia đất rộng người đông, và sau cả hơn một
thế kỷ nay, họ bị làm nhục bởi nhiều nước Nga, Nhật, Tây phương. Với dân số lớn
nhất hành tinh là hễ cứ có 5 người trên quả đất này là một công dân của Trung
Quốc. Điều đó nôm na, nếu chỉ cần mỗi người dân của họ cầm 1 tờ bạc RMB thôi
cũng đủ cho họ lưu hành đồng RMB lớn lao ra thế giới, vậy mà đồng bạc RMB của
họ mấy chục năm qua vẫn là đồng tiền cấp vùng chỉ dùng cho người nghèo, còn
tầng lớp nhà giàu thì ôm đồng USD, EUR làm đồng tiền dự trữ và tiêu xài, đó là
nỗi nhục của TQ.
Tất nhiên, nếu xếp theo thứ tự sản lượng kinh tế GDP thì IMF có
lý khi xếp TQ thứ 3. Bởi ta sẽ tính tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Mỹ trong
năm 2014 là 17.419 tỷ USD, chiếm 28,10% sản lượng GDP của nền kinh tế thế giới
(đứng số 1), còn tổng sản phẩm quốc nội (GDP) tính trung bình trong khối kinh
tế khu vực đồng Euro đạt 13.402,70 tỷ USD, chiếm 21,62% sản lượng GDP của nền
kinh tế thế giới, là khối kinh tế lớn thứ hai trên thế giới sau Mỹ. Đối với TQ là
10.360,10 tỷ USD (chiếm 16,71% sản lượng GDP của nền kinh tế thế giới, thực tế
chỉ chiếm 15% mà thôi).
Tuy nhiên, theo số liệu của Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) công bố
trong năm 2014, GDP Trung Quốc "dựa trên sức mua tương đương" (based
on purchasing power parity), hay viết tắt là PPP, thì nền kinh tế của TQ là
17.630 tỷ USD, điều này khiến TQ trở thành nền kinh tế lớn nhất thế giới. Liên
minh châu Âu - EU, quy tụ 28 thành viên, là Pháp, Đức, Hy Lạp, Hungary,
Ireland, Ý, Latvia, Lithuania, Luxembourg, Áo, Bỉ, Bulgaria, Croatia, Cyprus,
Cộng hòa Séc, Đan Mạch, Estonia, Phần Lan, Malta, Hà Lan, Ba Lan, Bồ Đào Nha,
Romania, Slovakia, Slovenia, Tây Ban Nha, Thụy Điển và Vương quốc Anh, thì lớn
thứ hai, với 17.610 tỷ USD, trong khi Mỹ rơi xuống vị trí thứ ba, và Mỹ chỉ sản
xuất ra 17.460 tỷ USD, còn tính cho 19 nước thành viên khu vực đồng EUR thì Mỹ
xếp thứ hai. Đó cũng là lý do tại sao mà IMF buộc phải đưa đồng RMB tham gia
SDRs.
Trong năm 2014, TQ xuất khẩu 2.343 tỷ USD hàng hóa. Tức lớn hơn
so với 28 nước EU cộng lại đến 170 tỷ USD (EU là 2173 tỷ USD), và lớn hơn Mỹ
722 tỷ USD (do xuất khẩu hàng hóa của Mỹ 1.621 tỷ USD), TQ trở thành nước xuất
khẩu lớn nhất thế giới từ năm 2013. TQ xuất khẩu vào thị trường Mỹ chiếm đến
17%, EU là 16%, ASEAN là 10%, Nhật Bản là 7%,...
Trong tháng 8/2015, đồng RMB đã trở thành đơn vị tiền tệ được sử
dụng nhiều thứ tư trên thế giới, và đồng RMB đã vượt qua đồng yên Nhật (JPY),
rồi đồng đô la Canada (CAD) và đồng đô la Úc (AUD),...nó cũng chả ngạc nhiên
chút nào.
Để làm việc này, thì trong năm 2013, Trung Quốc cho phép các nhà
đầu tư của Anh để đầu tư 13,1 tỷ USD tương đương với ngân khoản 80 tỷ RMB, trên
thị trường vốn, chủ yếu thông qua trung gian tại thị trường London, việc này
khiến London thành tâm điểm của một trung tâm thương mại giao dịch lớn cho đồng
RMB, ngoài thị trường tài chính châu Á truyền thống, kể cả Trung Quốc cũng đã
bật đèn xanh cho phép kinh doanh ngoại hối tại thị trường Thượng Hải.
Thật không may, tham vọng của TQ chỉ là cái bẫy đã giăng ra của
các nước kia. Đối với TQ, họ đang có tham vọng quá nhiều và thực lực thì quá
yếu và đã quen trong môi trường "tỷ giá cố định", hay "reference
rate" (tỷ giá tham chiếu), và quen "thao túng tiền tệ" (currency
manipulation) để bán hàng nhờ đồng tiền rẻ, bằng cách neo tỷ giá đồng RMB với
đồng USD, cùng với một số rổ tiền tệ khác, TQ họ giữ tỷ giá bằng cách mua trái
phiếu kho bạc Mỹ làm hạn chế nguồn cung đồng USD, khiến đồng RMB được định giá
thấp vừa phải để bán hàng dễ cạnh tranh thì nay sẽ bị hạn chế.
Mẫu chốt ở đây là trong phát triển kinh tế, TQ đã quen đạt mức
thặng dư tài khoản vãng lai. Bây giờ, khi đồng RMB được giới đầu tư chú ý và
tích trữ hoặc kiếm lời nhờ kỳ vọng tăng giá thì họ mua đồng RMB về làm dự trữ,
điều này khiến đồng RMB của TQ tuồn ra nước ngoài, dẫn đến làm cán cân vãng lai
của TQ bị thâm hụt. Đấy là công việc mà TQ phải trả giá và phải làm quen nghiệp
vụ khó hiểu này khi đồng RMB là ngoại tệ dự trữ vào rổ tiền Quyền rút vốn đặc
biệt (SDR).
Thứ nữa, một nghiệp vụ đầu tư kinh điển nữa là số dư tài khoản
hiện tại như một phần trăm của GDP của TQ sẽ phải thay đổi. Vì xưa nay, TQ luôn
đạt số dư tài khoản hiện tại như một phần trăm của GDP, nôm na nó như một thước
đo đánh giá mức độ cạnh tranh quốc tế của một quốc gia. Thông thường, các nước
ghi thặng dư tài khoản mạnh mẽ hiện nay có một nền kinh tế phụ thuộc nhiều vào
nguồn thu từ xuất khẩu, với xếp hạng tiết kiệm cao nhưng nhu cầu tiêu dùng
trong nước yếu, TQ thì đội sổ ở lĩnh vực này nên là mối nguy cho họ. Hiệu ứng
ngược lại, nếu các quốc gia bị âm thâm hụt tài khoản vãng lai, lại có nhập khẩu
mạnh mẽ, nó gợi ý xem như một tỷ lệ tiết kiệm thấp của quốc gia đó và tỷ lệ
tiêu dùng cá nhân cao như là một tỷ lệ phần trăm của thu nhập sau thuế, và mức
tiêu thụ nội địa mạnh, đối với TQ thì quá yếu mặt này.
Trên lý thuyết, nếu TQ thả nổi đồng RMB, việc này có nghĩa là TQ
phải cho phép tất cả các dân chúng tại TQ hay giới đầu tư nước ngoài có thể giữ
ngoại tệ và mua tài sản nước ngoài. Nhưng sẽ khiến dự trữ ngoại tệ bằng đồng
USD của giảm đi, và cũng giảm bớt sự mất cân bằng thương mại với Mỹ, khiến TQ
phải giảm bớt xuất khẩu vào thị trường Mỹ, vốn dĩ là thị trường xuất khẩu lớn
nhất của họ, có lẽ TQ sẽ khó mà bỏ được việc này, nên sẽ còn nhiều trò vi phạm
của TQ khi tham gia SDR này.
Nói chung, nếu TQ muốn tuyên truyền đồng RMB ra quốc tế thì cần
có mạng lưới giao dịch trung gian rộng khắp trên thế giới, nếu làm được việc
này thì cũng mất cả nửa thế kỷ, vì cần thuyết phục được mạng lưới các ngân hàng
trung ương, các định chế tài chính, các tổ chức ngân hàng tư nhân lớn và các
thị trường chứng khoán điều tiết nghiệp vụ này thì vô tình "buộc cái thòng
lọng vào cổ TQ" là phải tôn trọng luật lệ quốc tế. Có lẽ TQ sẽ rất khó đáp
ứng tiêu chuẩn này.
Chi tiết ở đây là nếu chính quyền Bắc Kinh mở rộng thị trường
tài chính và chứng khoán, nếu phản ứng giới đầu tư và đầu cơ họ lao đầu vào mua
đồng RMB bằng nhiều hình thức như kể cả mua trái phiếu do Bắc Kinh phát hành,
điều này khiến đồng RMB đột ngột tăng giá trị so với đồng USD, EUR, hay JPY
(Nhật),...thì hàng hóa xuất khẩu của TQ không cạnh tranh nổi vì bán đắt mà còn
kém phẩm chất so với hàng hóa của Âu, Mỹ, Nhật,...thì dội ngược lại vào các
doanh nghiệp sản xuất của TQ, vốn dĩ đang sản xuất dư thừa quen bán hàng rẻ nhờ
đồng bạc định giá thấp thì nay trở nên đắt hơn thì sẽ dẫn đến hậu quả hàng loạt
doanh nghiệp của TQ sẽ phá sản vì khó cạnh tranh, sẽ đẩy tỷ lệ thất nghiệp gia
tăng, đó là mối nguy mà TQ lo sợ nhất.
Nếu TQ lại ngựa quen đường cũ như can thiệp vào thị trường ngoại
hối để đồng đồng RMB khỏi tăng giá khi giới đầu tư và các ngân hàng trung ương
trên thế giới lỡ mua vào làm dự trữ cho kho ngoại hối của họ, hay tài trợ cho
trao đổi bán buôn. Nhưng chính quyền Bắc Kinh mà duy ý chí như trước đây. Cụ
thể họ tiếp tục chỉ định cho các ngân hàng tay chân quốc doanh âm thầm mua vào
các tài sản nước khác, như là mua vào đồng USD để làm sụt giá đồng RMB để tiếp
tục tài trợ cho chứng bệnh "nghiện xuất khẩu" của họ, còn tài sản của
thiên hạ tích trữ bằng đồng RMB hao hụt sụt giá dám chịu,...thì chả ai dám liều
lĩnh cất giữ tài sản bằng đồng RMB,...
Hiện nay, hay về dài, khối kinh tế khu vực đồng EUR và Nhật tiếp
tục dùng biện pháp QE, bơm tiền dìm lãi suất tới số không khiến đồng tiền EUR,
JPY mất giá có lẽ TQ sẽ đứng ngồi không yên và mất ngủ, nếu TQ vừa gia nhập SDR
mà lại chóng quên mất trí nhớ lại khơi mào đi kích hoạt phá giá đồng RMB như
vài tháng trước thì mất mặt với quốc tế, thiên hạ thì sợ đồng bạc RMB mất giá
mà ồ ạt bán tháo thì quả là khó đỡ đòn nổi khủng hoảng.
Nói chung, đây chỉ phân tích sơ lược thôi, vì thực tế phải đợi
TQ sau ngày 01/10/2016, và "một thời gian dài đáng kể", có lẽ TQ sẽ
tuyên bố xin ra khỏi giỏ Quyền rút vốn đặc biệt (SDRs) này. Bởi thực tế, không
nhất thiết phải là đồng bạc này hay đồng bạc kia phải nằm trong cái giỏ tiền quản
lý của IMF, vì thế giới còn có những đồng bạc được quốc tế ưa chuộng mà còn an
toàn hơn cả đồng USD hay EUR, như đồng Dollar Úc (AUD), đồng đô la Canada
(CAD), Krona Thụy Điển (SEK), Franc Thụy Sĩ (CHF),...
(*) Ở đây ta chỉ hiểu cái đơn giản, quan trọng là phân tích
chuyển được cái phức tạp nhất ra cái đơn giản nhất để ai cũng dễ hiểu chứ chả
ai đi chuyển cái đơn gian ra phức tạp cả.
Phương Thơ, Morgan Stanley (NYSE: MS)
BÌNH LUẬN